Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn:
Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
“Tôi có được nghe, thưa Tôn giả Gotama, người ta loan truyền rằng Sa-môn Gotama nói như sau:
“sutaṁ metaṁ, bho gotama, samaṇo gotamo evamāha:
‘Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác.
‘mayhameva dānaṁ dātabbaṁ, nāññesaṁ dānaṁ dātabbaṁ;
Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác.
mayhameva sāvakānaṁ dānaṁ dātabbaṁ, nāññesaṁ sāvakānaṁ dānaṁ dātabbaṁ;
Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn.
mayhameva dinnaṁ mahapphalaṁ, nāññesaṁ dinnaṁ mahapphalaṁ;
Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!’
mayhameva sāvakānaṁ dinnaṁ mahapphalaṁ, nāññesaṁ sāvakānaṁ dinnaṁ mahapphalan’ti.
Thưa Tôn giả Gotama, những ai nói rằng Sa-môn nói như sau:
Ye te, bho gotama, evamāhaṁsu ‘samaṇo gotamo evamāha:
“Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!”
“mayhameva dānaṁ dātabbaṁ, nāññesaṁ dānaṁ dātabbaṁ. Mayhameva sāvakānaṁ dānaṁ dātabbaṁ, nāññesaṁ sāvakānaṁ dānaṁ dātabbaṁ. Mayhameva dinnaṁ mahapphalaṁ, nāññesaṁ dinnaṁ mahapphalaṁ. Mayhameva sāvakānaṁ dinnaṁ mahapphalaṁ, nāññesaṁ sāvakānaṁ dinnaṁ mahapphalan”’ti.
Những người nói như vậy, có phải nói đúng lời nói của Tôn giả Gotama, không có xuyên tạc Tôn giả Gotama với điều không thật? Có phải họ nói như vậy là đúng pháp và thuận pháp, và những ai là người đúng pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không có cơ hội để chỉ trích
Kacci te bhoto gotamassa vuttavādino na ca bhavantaṁ gotamaṁ abhūtena abbhācikkhanti, dhammassa cānudhammaṁ byākaronti, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchati?
Họ không muốn xuyên tạc Tôn giả Gotama.”
Anabbhakkhātukāmā hi mayaṁ bhavantaṁ gotaman”ti.
“Này Vaccha, những ai nói rằng:
“Ye te, vaccha, evamāhaṁsu:
Sa-môn Gotama nói như sau:
‘samaṇo gotamo evamāha:
Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!
“mayhameva dānaṁ dātabbaṁ …pe…nāññesaṁ sāvakānaṁ dinnaṁ mahapphalan”’ti
Những người ấy không nói đúng với lời nói của ta, họ đã xuyên tạc ta với điều không thật, họ đã nói láo.
na me te vuttavādino. Abbhācikkhanti ca pana maṁ asatā abhūtena.
Này Vaccha, ai ngăn chận người khác bố thí, người ấy tạo ra ba chướng ngại pháp và đánh cắp mất ba vật.
Yo kho, vaccha, paraṁ dānaṁ dadantaṁ vāreti so tiṇṇaṁ antarāyakaro hoti, tiṇṇaṁ pāripanthiko.
Thế nào là ba?
Katamesaṁ tiṇṇaṁ?
Người ấy làm chướng ngại người cho không được công đức, người ấy ngăn chặn người nhận không được bố thí, và tự ngã người ấy trước đã mất gốc, lại càng bị thương tổn hơn.
Dāyakassa puññantarāyakaro hoti, paṭiggāhakānaṁ lābhantarāyakaro hoti, pubbeva kho panassa attā khato ca hoti upahato ca.
Này Vaccha, ai ngăn chặn người cho không bố thí người khác, tạo ra ba chướng ngại như vậy, và đánh cắp mất ba vật.
Yo kho, vaccha, paraṁ dānaṁ dadantaṁ vāreti so imesaṁ tiṇṇaṁ antarāyakaro hoti, tiṇṇaṁ pāripanthiko.
Này Vaccha, ta nói như sau:
Ahaṁ kho pana, vaccha, evaṁ vadāmi:
‘Những ai đổ đồ phế thải trên mâm bàn, hay đồ rửa chén bát vào hố phân hay hố rác rưởi với ý nghĩ:
‘ye hi te candanikāya vā oligalle vā pāṇā, tatrapi yo thālidhovanaṁ vā sarāvadhovanaṁ vā chaḍḍeti.
“Để các loài hữu tình trong ấy nhờ đấy được ăn để sống!”’, do nhân duyên ấy, này Vaccha, ta nói có đem lại công đức
“ye tattha pāṇā te tena yāpentū”’ti, tato nidānampāhaṁ, vaccha, puññassa āgamaṁ vadāmi.
Còn nói gì đối với loài người!
Ko pana vādo manussabhūte.
Lại nữa, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng, cho người có giới hạnh được quả lớn, cho người ác giới không phải như vậy. Người có giới hạnh là người đã đoạn tận năm pháp và đã đầy đủ năm pháp.
Api cāhaṁ, vaccha, sīlavato dinnaṁ mahapphalaṁ vadāmi, no tathā dussīlassa, so ca hoti pañcaṅgavippahīno pañcaṅgasamannāgato.
Thế nào là năm pháp đã được đoạn tận?
Katamāni pañcaṅgāni pahīnāni honti?
Dục tham đã được đoạn tận, sân đã được đoạn tận, hôn trầm thùy miên đã được đoạn tận, trạo hối đã được đoạn tận, nghi đã được đoạn tận.
Kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṁ pahīnaṁ hoti, uddhaccakukkuccaṁ pahīnaṁ hoti, vicikicchā pahīnā hoti.
Năm pháp này đã được đoạn tận.
Imāni pañcaṅgāni vippahīnāni honti.
Năm pháp nào đã được đầy đủ?
Katamehi pañcahi aṅgehi samannāgato hoti?
Ðầy đủ vô học giới uẩn, đầy đủ vô học định uẩn, đầy đủ vô học tuệ uẩn, đầy đủ vô học giải thoát uẩn, đầy đủ vô học giải thoát tri kiến uẩn.
Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti;
Vị ấy được đầy đủ năm pháp này.
imehi pañcahi aṅgehi samannāgato hoti.
Ở đây, Ta tuyên bố rằng, bố thí cho người đoạn tận năm pháp, đầy đủ năm pháp có quả lớn.
Iti pañcaṅgavippahīne pañcaṅgasamannāgate dinnaṁ mahapphalanti vadāmīti.
Trích AN 3.57. Vacchagotta – Ngài Minh châu dịch Việt
Trả lời