Làm sao để phân biệt đâu là lời dạy của Phật trong cái thời “ai cũng muốn làm bậc đạo sư”?

Rồi các người Kālāma ở Kesamutta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào chớ vội tin đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kālāma ở Kesamutta bạch Thế Tôn:

Atha kho kesamuttiyā kālāmā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu, appekacce bhagavatā saddhiṁ sammodiṁsu, sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu, appekacce yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu, appekacce nāmagottaṁ sāvetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu, appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te kesamuttiyā kālāmā bhagavantaṁ etadavocuṁ:

“Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesamutta.

“Santi, bhante, eke samaṇabrāhmaṇā kesamuttaṁ āgacchanti.

Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc.

Te sakaṁyeva vādaṁ dīpenti jotenti, parappavādaṁ pana khuṁsenti vambhenti paribhavanti omakkhiṁ karonti. 

Bạch Thế Tôn, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesamutta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc.

Aparepi, bhante, eke samaṇabrāhmaṇā kesamuttaṁ āgacchanti. Tepi sakaṁyeva vādaṁ dīpenti jotenti, parappavādaṁ pana khuṁsenti vambhenti paribhavanti omakkhiṁ karonti.

Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?”

Tesaṁ no, bhante, amhākaṁ hoteva kaṅkhā hoti vicikicchā: ‘ko su nāma imesaṁ bhavataṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ saccaṁ āha, ko musā’”ti?

“Ðương nhiên, này các Kālāma, các Ông có những nghi ngờ! Ðương nhiên, này các Kālāma, các Ông có những phân vân!

“Alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṁ alaṁ vicikicchituṁ. Kaṅkhanīyeva pana vo ṭhāne vicikicchā uppannā. 

Này các Kālāma, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Etha tumhe, kālāmā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhi­ni­j­jhāna­k­khanti­yā­, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.

Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau:

Yadā tumhe, kālāmā, attanāva jāneyyātha:

Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kālāma, hãy từ bỏ chúng!

‘ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṁvattantī’ti, atha tumhe, kālāmā, pajaheyyātha. 

Các Ông nghĩ thế nào, này Kālāma!?

Taṁ kiṁ maññatha, kālāmā,

Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?”

lobho purisassa ajjhattaṁ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā”ti?

Bất hạnh, bạch Thế Tôn.”

“Ahitāya, bhante”.

“Người này có tham, này các Kālāma, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?”

“Luddho panāyaṁ, kālāmā, purisapuggalo lobhena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṁ sa hoti dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti. 

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”

“Evaṁ, bhante”.

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Kālāma, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

“Taṁ kiṁ maññatha, kālāmā, doso purisassa ajjhattaṁ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā”ti?

Bất hạnh, bạch Thế Tôn.”

“Ahitāya, bhante”.

“Người này có sân, này các Kālāma, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?”

“Duṭṭho panāyaṁ, kālāmā, purisapuggalo dosena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṁ sa hoti dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti. 

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”

“Evaṁ, bhante”.

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Kālāma, lòng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

“Taṁ kiṁ maññatha, kālāmā, moho purisassa ajjhattaṁ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā”ti?

Bất hạnh, bạch Thế Tôn.”

“Ahitāya, bhante”.

“Người này có si, này các Kālāma, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?”

“Mūḷho panāyaṁ, kālāmā, purisapuggalo mohena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṁ sa hoti dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”

“Evaṁ, bhante”.

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Kālāmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?”

“Taṁ kiṁ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vā”ti?

Là bất thiện, bạch Thế Tôn.”

“Akusalā, bhante”.

“Đáng chê hay không đáng chê?”

“Sāvajjā vā anavajjā vā”ti?

Đáng chê, bạch Thế Tôn.”

“Sāvajjā, bhante”.

“Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?”

“Viññugarahitā vā viññuppasatthā vā”ti?

Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.”

“Viññugarahitā, bhante”.

“Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? Hay ở đây, là như thế nào?

“Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṁvattanti, no vā? Kathaṁ vā ettha hotī”ti? 

“Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ. Ở đây, đối với chúng con là vậy.

“Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṁvattantīti. Evaṁ no ettha hotī”ti.

“Như vậy, này các Kālāma, điều Ta vừa nói với các Ông:

“Iti kho, kālāmā, yaṁ taṁ avocumhā: 

‘Này các Kālāma.

‘etha tumhe, kālāmā.

Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhi­ni­j­jhāna­k­khanti­yā­, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.

Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kālāma, hãy từ bỏ chúng! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

Yadā tumhe kālāmā attanāva jāneyyātha: “ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṁvattantīti, atha tumhe, kālāmā, pajaheyyāthā”’ti,

Này các Kālāma, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ. Etha tumhe, kālāmā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhi­ni­j­jhāna­k­khanti­yā­, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.

Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp này là không đáng chê; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này Kālāma, hãy tự đạt đến và an trú!

Yadā tumhe, kālāmā, attanāva jāneyyātha: ‘ime dhammā kusalā, ime dhammā anavajjā, ime dhammā viññuppasatthā, ime dhammā samattā samādinnā hitāya sukhāya saṁvattantī’ti, atha tumhe, kālāmā, upasampajja vihareyyātha.


Trích AN 3.65. Kesamutti



Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Bố Thí Bộ Phân Tích Chánh Niệm Chùa Cổ Coi Ngày Tốt Xấu Các Bậc Thánh Nhân Gia Đình Và Xã Hội Giới Luật Tỳ Khưu Giới Sīla Hội Chúng Kệ Khuyến Tu lòng tin ma vương nghiệp báo Nghiệp Và Quả Của Nghiệp ngũ trần người hiền trí nhẫn nại nền văn minh Phương Pháp Giáo Dục phước báo Phẩm Hạnh Sa Môn Phật Giáo Và Khoa Học sợ hãi Thiền Minh Sát Thiền Tứ Niệm Xứ Thiền Vipassanā Thích Minh Châu Thần Thông Truyện Phật Giáo Trí Tuệ Trường Bộ Kinh Tài Sản Tà Kiến Tái Sanh Tâm Lý Học Phật Giáo Tăng Chi Kinh Tạng Luật tỉnh giác Tội Trục Xuất tứ thánh đế Tỳ Khưu Hộ Tông Vi Diệu Pháp Vô Thường Vấn Đáp Phật Pháp

Tháng Ba 2023
H B T N S B C
 12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Tạo một blog trên WordPress.com

%d người thích bài này: