Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra“. Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói:
Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino: ‘yaṁ kiñcāyaṁ purisapuggalo paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā sabbaṁ taṁ issaranimmānahetū’ti, tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:
“Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau: “Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra? “
‘saccaṁ kira tumhe āyasmanto evaṁvādino evaṁdiṭṭhino—yaṁ kiñcāyaṁ purisapuggalo paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā sabbaṁ taṁ issaranimmānahetū’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: “Thưa phải, có như vậy”.
Te ca me evaṁ puṭṭhā ‘āmā’ti paṭijānanti.
Ta nói với họ như sau: “Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người sát sanh, do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người lấy của không cho; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người không Phạm hạnh; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói láo; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người ác khẩu; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói lời phù phiếm; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người tham lam; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người tâm sân; do nhân một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người theo tà kiến“.
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi: ‘tenahāyasmanto pāṇātipātino bhavissanti issaranimmānahetu, adinnādāyino bhavissanti issaranimmānahetu, abrahmacārino bhavissanti issaranimmānahetu, musāvādino bhavissanti issaranimmānahetu, pisuṇavācā bhavissanti issaranimmānahetu, pharusavācā bhavissanti issaranimmānahetu, samphappalāpino bhavissanti issaranimmānahetu, abhijjhāluno bhavissanti issaranimmānahetu, byāpannacittā bhavissanti issaranimmānahetu, micchādiṭṭhikā bhavissanti issaranimmānahetu’.
Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào vị tạo hóa tạo ra là lý do kiên thực, với những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có “Ðây là việc phải làm”, hay “Ðây là việc không nên làm”.
Issaranimmānaṁ kho pana, bhikkhave, sārato paccāgacchataṁ na hoti chando vā vāyāmo vā idaṁ vā karaṇīyaṁ idaṁ vā akaraṇīyanti.
Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm không được tìm thấy là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các Ông được, vì các Ông sống thất niệm và với các căn không hộ trì.
Iti karaṇīyākaraṇīye kho pana saccato thetato anupalabbhiyamāne muṭṭhassatīnaṁ anārakkhānaṁ viharataṁ na hoti paccattaṁ sahadhammiko samaṇavādo.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ hai của ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.
Ayaṁ kho me, bhikkhave, tesu samaṇabrāhmaṇesu evaṁvādīsu evaṁdiṭṭhīsu dutiyo sahadhammiko niggaho hoti.
Trích AN 3.61. Sở Y Xứ
Trả lời