Tóm tắt: “Tạo nghiệp dẫn tới cảm thọ (thọ vui hay thọ khổ)”. Ở câu nói ấy, Phật nói rằng sự kiện như vậy không có cơ hội để nêu rõ sự đoạn diệt của khổ, nên Ngài chỉnh lại câu ấy như sau: “Tạo nghiệp dẫn tới cảm thọ, và chính cảm thọ đó sẽ cho quả”. Rõ ràng, câu nói của Ngài đầy đủ đến độ thấy được nguyên nhân của khổ và làm đoạn diệt khổ. Nguyên nhân của khổ là gì? Từ câu nói hoàn hảo của Phật, ta có quy trình: Tạo Nghiệp > Cảm Thọ > Quả Dị Thục. Vậy, yếu tố cảm thọ chính là mắc xích trong chuỗi Nghiệp cho Quả, chỉ cần chấm dứt được Cảm Thọ, thì Khổ sẽ đoạn diệt. Vậy, cách chấm dứt Cảm Thọ là gì? Đó là: Thân tu tập, giới tu tập, tâm tu tập, tuệ tu tập hay gom lại là Giới, Định, Tuệ hay gom lại nữa là Giữ Giới Và Tham Thiền (Thiền Định, Thiền Tuệ). Chính vì giữ giới và tham thiền, tạo nên phước báu thù thắng, làm giảm đi hiệu năng cho quả của ác nghiệp. Còn nếu Ba-la-mật chín muồi, giữ giới và tham thiền sẽ đưa tới chứng đắc đạo quả A-la-hán thì như Phật nói “Cho đến chút ít cũng không thấy trong đời sau, nói gì là nhiều”, bởi các Ngài đã tịch diệt Niết Bàn ngay trong kiếp sống này.
– Dhanapālaka –
“Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: “Người này làm nghiệp như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy“. Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt.
“Yo, bhikkhave, evaṁ vadeyya: ‘yathā yathāyaṁ puriso kammaṁ karoti tathā tathā taṁ paṭisaṁvediyatī’ti, evaṁ santaṁ, bhikkhave, brahmacariyavāso na hoti, okāso na paññāyati sammā dukkhassa antakiriyāya.
Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy“. Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt.
Yo ca kho, bhikkhave, evaṁ vadeyya: ‘yathā yathā vedanīyaṁ ayaṁ puriso kammaṁ karoti tathā tathāssa vipākaṁ paṭisaṁvediyatī’ti, evaṁ santaṁ, bhikkhave, brahmacariyavāso hoti, okāso paññāyati sammā dukkhassa antakiriyāya.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa appamattakampi pāpakammaṁ kataṁ tamenaṁ nirayaṁ upaneti.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
Idha pana, bhikkhave, ekaccassa puggalassa tādisaṁyeva appamattakaṁ pāpakammaṁ kataṁ diṭṭhadhammavedanīyaṁ hoti, nāṇupi khāyati, kiṁ bahudeva.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục?
Kathaṁrūpassa, bhikkhave, puggalassa appamattakampi pāpakammaṁ kataṁ tamenaṁ nirayaṁ upaneti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi.
Idha pana, bhikkhave, ekacco puggalo abhāvitakāyo hoti abhāvitasīlo abhāvitacitto abhāvitapañño paritto appātumo appadukkhavihārī.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Evarūpassa, bhikkhave, puggalassa appamattakampi pāpakammaṁ kataṁ tamenaṁ nirayaṁ upaneti.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều?
Kathaṁrūpassa, bhikkhave, puggalassa tādisaṁyeva appamattakaṁ pāpakammaṁ kataṁ diṭṭhadhammavedanīyaṁ hoti, nāṇupi khāyati, kiṁ bahudeva?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng.
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo bhāvitakāyo hoti bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapañño aparitto mahatto appamāṇavihārī.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
Evarūpassa, bhikkhave, puggalassa tādisaṁyeva appamattakaṁ pāpakammaṁ kataṁ diṭṭhadhammavedanīyaṁ hoti, nāṇupi khāyati, kiṁ bahudeva.
Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso loṇakapallaṁ paritte udakamallake pakkhipeyya.
Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, api nu taṁ parittaṁ udakaṁ amunā loṇakapallena loṇaṁ assa apeyyan”ti?
“Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao?
“Evaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Nước trong chén nhỏ này là ít, do nắm muối này, nước trở thành mặn, không uống được.”
“Aduñhi, bhante, parittaṁ udakakapallake udakaṁ, taṁ amunā loṇakapallena loṇaṁ assa apeyyan”ti.
“Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng.
“Seyyathāpi, bhikkhave, puriso loṇakapallakaṁ gaṅgāya nadiyā pakkhipeyya.
Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, api nu sā gaṅgā nadī amunā loṇakapallena loṇaṁ assa apeyyā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao?
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Lớn là cả khối nước sông Hằng. Khối nước ấy không vì nắm muối này, nước trở thành mặn và không uống được.”
“Asu hi, bhante, gaṅgāya nadiyā mahā udakakkhandho so amunā loṇakapallena loṇo na assa apeyyo”ti.
“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
“Evamevaṁ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa appamattakampi pāpakammaṁ kataṁ tamenaṁ nirayaṁ upaneti.
Ở đây, này các Tỷ kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa tādisaṁyeva appamattakaṁ pāpakammaṁ kataṁ diṭṭhadhammavedanīyaṁ hoti, nāṇupi khāyati, kiṁ bahudeva.
AN 3.100. Nắm Muối
Trả lời