“Này Kesi, Ông là người đánh xe điều phục ngựa, có chế ngự. Và này Kesi, Ông nhiếp phục ngựa như thế nào?”
“tvaṁ khosi, kesi, paññāto assadammasārathīti. Kathaṁ pana tvaṁ, kesi, assadammaṁ vinesī”ti?
“Bạch Thế tôn, con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời thô ác; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng và thô ác.”
“Ahaṁ kho, bhante, assadammaṁ saṇhenapi vinemi, pharusenapi vinemi, saṇhapharusenapi vinemī”ti.
“Này Kesi, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác, thời Ông làm gì với con ngựa ấy?”
“Sace te, kesi, assadammo saṇhena vinayaṁ na upeti, pharusena vinayaṁ na upeti, saṇhapharusena vinayaṁ na upeti, kinti naṁ karosī”ti?
Bạch Thế tôn, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác của con; thời bạch Thế tôn, con giết nó. Vì sao?
“Sace me, bhante, assadammo saṇhena vinayaṁ na upeti, pharusena vinayaṁ na upeti, saṇhapharusena vinayaṁ na upeti; hanāmi naṁ, bhante. Taṁ kissa hetu?
Vì mong rằng nó không làm mất danh dự cho gia đình thầy của con!
‘Mā me ācariyakulassa avaṇṇo ahosī’ti.
“Nhưng bạch Thế tôn, Thế tôn là bậc Vô thượng, đánh xe điều ngự những ai đáng được điều ngự. Như thế nào Thế tôn nhiếp phục những ai đáng được điều phục?”
Bhagavā pana, bhante, anuttaro purisadammasārathi. Kathaṁ pana, bhante, bhagavā purisadammaṁ vinetī”ti?
“Này Kesi, Ta nhiếp phục người đáng được nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, Ta nhiếp phục với lời nói cứng rắn, Ta nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng, vừa cứng rắn.
“Ahaṁ kho, kesi, purisadammaṁ saṇhenapi vinemi, pharusenapi vinemi, saṇhapharusenapi vinemi.
Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói mềm mỏng: ‘Ðây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Ðây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Ðây là ý nghĩ thiện, đây là quả báo ý nghĩ thiện, Ðây là chư Thiên. Ðây là loài Người.’
Tatridaṁ, kesi, saṇhasmiṁ— iti kāyasucaritaṁ iti kāyasucaritassa vipāko, iti vacīsucaritaṁ iti vacīsucaritassa vipāko, iti manosucaritaṁ iti manosucaritassa vipāko, iti devā, iti manussāti.
Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói cứng rắn: Ðây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Ðây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Ðây là ý nghĩ ác, đây là quả báo ý nghĩ ác. Ðây là địa ngục. Ðây là loài bàng sanh. Ðây là loại ngạ quỷ.
Tatridaṁ, kesi, pharusasmiṁ—iti kāyaduccaritaṁ iti kāyaduccaritassa vipāko, iti vacīduccaritaṁ iti vacīduccaritassa vipāko, iti manoduccaritaṁ iti manoduccaritassa vipāko, iti nirayo, iti tiracchānayoni, iti pettivisayoti.
Tại đây, này Kesi, đây là lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn: Ðây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Ðây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Ðây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Ðây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Ðây là ý nghĩ thiện, đây là quả báo ý nghĩ thiện. Ðây là ý nghĩ ác, đây là quả báo ý nghĩ ác. Ðây là chư Thiên. Ðây là loài Người. Ðây là địa ngục. Ðây là loài bàng sanh. Ðây là ngạ quỷ.
Tatridaṁ, kesi, saṇhapharusasmiṁ— iti kāyasucaritaṁ iti kāyasucaritassa vipāko, iti kāyaduccaritaṁ iti kāyaduccaritassa vipāko, iti vacīsucaritaṁ iti vacīsucaritassa vipāko, iti vacīduccaritaṁ iti vacīduccaritassa vipāko, iti manosucaritaṁ iti manosucaritassa vipāko, iti manoduccaritaṁ iti manoduccaritassa vipāko, iti devā, iti manussā, iti nirayo, iti tiracchānayoni, iti pettivisayo”ti.
“Bạch Thế tôn, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Thế tôn, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, thời Thế tôn làm gì với người ấy?”
“Sace te, bhante, purisadammo saṇhena vinayaṁ na upeti, pharusena vinayaṁ na upeti, saṇhapharusena vinayaṁ na upeti, kinti naṁ bhagavā karotī”ti?
“Này Kesi, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Ta, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn, này Kesi, thời Ta giết hại người ấy!”
“Sace me, kesi, purisadammo saṇhena vinayaṁ na upeti, pharusena vinayaṁ na upeti, saṇhapharusena vinayaṁ na upeti, hanāmi naṁ, kesī”ti.
“Nhưng bạch Thế tôn, sát sanh không xứng đáng với Thế tôn. Tuy vậy, Thế tôn nói: “Này Kesi, Ta giết hại người ấy”.
“Na kho, bhante, bhagavato pāṇātipāto kappati. Atha ca pana bhagavā evamāha: ‘hanāmi naṁ, kesī’”ti.
“Thật vậy, này Kesi, sát sanh không xứng đáng với Như Lai.
“Saccaṁ, kesi. Na tathāgatassa pāṇātipāto kappati.
Nhưng người đáng được điều phục ấy không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, Như Lai nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới. Và các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới.
Api ca yo purisadammo saṇhena vinayaṁ na upeti, pharusena vinayaṁ na upeti, saṇhapharusena vinayaṁ na upeti, na taṁ tathāgato vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññanti.
“Bị giết hại, này Kesi là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới.”
Vadho heso, kesi, ariyassa vinaye—yaṁ na tathāgato vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññantī”ti.
“Bạch Thế tôn, người ấy bị bậc Thiện Thệ giết hại là người nào bị Như Lai nghĩ rằng không xứng đáng được nói đến, không xứng đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới.”
“So hi nūna, bhante, suhato hoti— yaṁ na tathāgato vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṁ anusāsitabbaṁ maññantīti.
AN 4.111. Kinh Kesi
Trả lời