“Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này. Thế nào là bốn?
“Cattārimāni, bhikkhave, ṭhānāni. Katamāni cattāri?
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến không lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ atthāya saṁvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, không đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ atthāya saṁvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý; không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
Tatra, bhikkhave, yamidaṁ ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati— idaṁ, bhikkhave, ṭhānaṁ ubhayeneva na kattabbaṁ maññati.
Trường hợp này làm không thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.
Yampidaṁ ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; imināpi naṁ na kattabbaṁ maññati.
Trường hợp làm không đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.
Yampidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati; imināpi naṁ na kattabbaṁ maññati
Ðây là trường hợp, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
Idaṁ, bhikkhave, ṭhānaṁ ubhayeneva na kattabbaṁ maññati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.
Tatra, bhikkhave, yamidaṁ ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ atthāya saṁvattati— imasmiṁ, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.
Và này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng:
Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này không thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm“.
‘kiñcāpi kho idaṁ ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; atha carahidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ atthāya saṁvattatī’ti.
Người ấy không làm trường hợp này.
So taṁ ṭhānaṁ na karoti.
Do không làm trường hợp này, nên không đưa lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṁ ṭhānaṁ akayiramānaṁ anatthāya saṁvattati.
Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét rằng:
Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này làm không được thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm“.
‘kiñcāpi kho idaṁ ṭhānaṁ amanāpaṁ kātuṁ; atha carahidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ atthāya saṁvattatī’ti.
Người ấy làm trường hợp này.
So taṁ ṭhānaṁ karoti.
Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ atthāya saṁvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.
Tatra, bhikkhave, yamidaṁ ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ; tañca kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati— imasmimpi, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.
Này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng:
Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này, làm được thích ý, nhưng trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm“.
‘kiñcāpi kho idaṁ ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ; atha carahidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ anatthāya saṁvattatī’ti.
Người ấy làm trường hợp này.
So taṁ ṭhānaṁ karoti.
Người ấy làm trường hợp này, và trường hợp này không đem lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ anatthāya saṁvattati.
Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét như sau:
Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm“.
‘kiñcāpi kho idaṁ ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ; atha carahidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ anatthāya saṁvattatī’ti.
Vị ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
So taṁ ṭhānaṁ na karoti. Tassa taṁ ṭhānaṁ akayiramānaṁ atthāya saṁvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, và đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều nên làm.
Tatra, bhikkhave, yamidaṁ ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ, tañca kayiramānaṁ atthāya saṁvattati— idaṁ, bhikkhave, ṭhānaṁ ubhayeneva kattabbaṁ maññati.
Trường hợp này, làm được thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.
Yampidaṁ ṭhānaṁ manāpaṁ kātuṁ, imināpi naṁ kattabbaṁ maññati;
Trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.
yampidaṁ ṭhānaṁ kayiramānaṁ atthāya saṁvattati, imināpi naṁ kattabbaṁ maññati.
Trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều phải làm.
Idaṁ, bhikkhave, ṭhānaṁ ubhayeneva kattabbaṁ maññati.
Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này.”
Imāni kho, bhikkhave, cattāri ṭhānānī”ti.
AN 4.115. Kinh Các Trường Hợp
Trả lời