Bốn phương pháp giáo dục cực kỳ khoa học ứng dụng trong tu học, công việc và đời sống

Tóm tắt bài kinh và bài học rút ra: Đức Phật dạy rằng khi nghe bất cứ điều chi, từ bất cứ vị Tỷ kheo nào. Dù vị đó là vị được ca tụng là bậc đa văn đi chăng nữa. Thì việc đầu tiên chớ vội tin hay bác bỏ, mà cần học hỏi kỹ lưỡng và đem đối chiếu lại với kinh điển, từng câu, từng chữ. Nếu phù hợp với kinh và luật thì đó là lời Phật dạy. Cũng thế ấy, trong đời sống, dù vị ấy là Tiến Sĩ, Giáo Sư đi chăng nữa, thì cũng nên học hỏi kỹ lưỡng và đối chiếu với tài liệu chuyên môn rồi hãy chấp nhận.

Một thời, Thế Tôn trú ở kinh đô Bhoga, tại điện Ānanda. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

Ekaṁ samayaṁ bhagavā bhoganagare viharati ānandacetiye. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo!”

“bhikkhavo”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:

“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:

“Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về bốn đại căn cứ địa này. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

“cattārome, bhikkhave, mahāpadese desessāmi, taṁ suṇātha, sādhukaṁ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:

“Evaṁ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bốn đại căn cứ địa?

“Katame, bhikkhave, cattāro mahāpadesā?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói như sau:

Idha, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya:

“Này Hiền giả, đối diện với Thế Tôn, tôi nghe như vậy, đối diện với Thế Tôn, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“.

‘sammukhā metaṁ, āvuso, bhagavato sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; và các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni na ceva sutte otaranti na vinaye sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ na ceva tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; imassa ca bhikkhuno duggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.

Iti hetaṁ, bhikkhave, chaḍḍeyyātha. 

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói như sau: “Này Hiền giả, đối diện với Thế Tôn, tôi nghe như vậy, đối diện với Thế Tôn, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“.’

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘sammukhā metaṁ, āvuso, bhagavato sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Nếu chúng phù hợp với kinh, tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này là lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo tốt đẹp“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte ceva otaranti vinaye ca sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; imassa ca bhikkhuno suggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, đây là đại căn cứ địa thứ nhất các Thầy cần phải thọ trì.’

Idaṁ, bhikkhave, paṭhamaṁ mahāpadesaṁ dhāreyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có Tăng chúng ở với vị thượng tọa, với vị thủ chúng.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse saṅgho viharati sathero sapāmokkho.

Ðối diện Tăng chúng, tôi nghe như vậy, đối diện với Tăng chúng, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư.”

Tassa me saṅghassa sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận:

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni na ceva sutte otaranti na vinaye sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ:

“Chắc chắn những lời này không phải lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm“.

‘addhā idaṁ na ceva tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tassa ca saṅghassa duggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.

Iti hetaṁ, bhikkhave, chaḍḍeyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có Tăng chúng ở với vị thượng tọa, với vị thủ chúng.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse saṅgho viharati sathero sapāmokkho.

Ðối diện với Tăng chúng, tôi nghe như vậy, đối diện với Tăng chúng ấy, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“”.

Tassa me saṅghassa sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng phù hợp với kinh, tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này là lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni, vinaye sandassiyamānāni sutte ceva otaranti vinaye ca sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tassa ca saṅghassa suggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, như vây là đại căn cứ địa thứ hai các Thầy cần phải thọ trì.

Idaṁ, bhikkhave, dutiyaṁ mahāpadesaṁ dhāreyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có nhiều Tỷ-kheo trưởng lão ở, những vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse sambahulā therā bhikkhū viharanti bahussutā āgatāgamā dhammadharā vinayadharā mātikādharā.

Ðối diện với các trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với các trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“”.

Tesaṁ me therānaṁ sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni na ceva sutte otaranti na vinaye sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ na ceva tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tesañca therānaṁ duggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.

Iti hetaṁ, bhikkhave, chaḍḍeyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có nhiều Tỷ-kheo trưởng lão ở, những vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse sambahulā therā bhikkhū viharanti bahussutā āgatāgamā dhammadharā vinayadharā mātikādharā.

Ðối diện với các trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với các trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“”.

Tesaṁ me therānaṁ sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ— ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng phù hợp với kinh, tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời ấy là lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte ceva otaranti vinaye ca sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tesañca therānaṁ suggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, như vậy là đại căn cứ địa thứ ba các Thầy cần phải thọ trì.

Idaṁ, bhikkhave, tatiyaṁ mahāpadesaṁ dhāreyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có vị trưởng lão, vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse eko thero bhikkhu viharati bahussuto āgatāgamo dhammadharo vinayadharo mātikādharo.

Ðối diện với vị trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với vị trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“”.

Tassa me therassa sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; các Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni na ceva sutte otaranti na vinaye sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ na ceva tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tassa ca therassa duggahitan’ti.

Và này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.

Iti hetaṁ, bhikkhave, chaḍḍeyyātha.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói như sau: “Tại trú xứ kia có vị trưởng lão, vị này là bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu.

Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṁ vadeyya: ‘asukasmiṁ nāma āvāse eko thero bhikkhu viharati bahussuto āgatāgamo dhammadharo vinayadharo mātikādharo.

Ðối diện với vị trưởng lão ấy, tôi nghe như vậy, đối diện với vị trưởng lão ấy, tôi lãnh thọ như vậy: “Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Ðạo sư“”.

Tassa me therassa sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ—ayaṁ dhammo, ayaṁ vinayo, idaṁ satthusāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với Luật.

Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṁ neva abhinanditabbaṁ nappaṭikkositabbaṁ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṁ uggahetvā sutte otāretabbāni, vinaye sandassetabbāni.

Nếu chúng phù hợp với kinh, tương ứng với Luật, thời các Thầy có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này là lời dạy của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác; các Trưởng lão ấy đã thọ giáo chơn chánh“.

Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte ceva otaranti vinaye ca sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṁ: ‘addhā idaṁ tassa bhagavato vacanaṁ arahato sammāsambuddhassa; tassa ca therassa suggahitan’ti.

Này các Tỷ-kheo, như vậy là đại căn cứ địa thứ tư các Thầy cần phải thọ trì.

Idaṁ, bhikkhave, catutthaṁ mahāpadesaṁ dhāreyyātha.

Này các Tỷ-kheo, có bốn đại căn cứ địa này.”

Ime kho, bhikkhave, cattāro mahāpadesā”ti.

AN 4.180 Kinh Bốn Đại Căn Cứ Địa | AN 4.180 Mahāpadesasutta



Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Bố Thí Bộ Phân Tích Chánh Niệm Chùa Cổ Coi Ngày Tốt Xấu Các Bậc Thánh Nhân Gia Đình Và Xã Hội Giới Luật Tỳ Khưu Giới Sīla Hội Chúng Kệ Khuyến Tu lòng tin ma vương nghiệp báo Nghiệp Và Quả Của Nghiệp ngũ trần người hiền trí nhẫn nại nền văn minh Phương Pháp Giáo Dục phước báo Phẩm Hạnh Sa Môn Phật Giáo Và Khoa Học sợ hãi Thiền Minh Sát Thiền Tứ Niệm Xứ Thiền Vipassanā Thích Minh Châu Thần Thông Truyện Phật Giáo Trí Tuệ Trường Bộ Kinh Tài Sản Tà Kiến Tái Sanh Tâm Lý Học Phật Giáo Tăng Chi Kinh Tạng Luật tỉnh giác Tội Trục Xuất tứ thánh đế Tỳ Khưu Hộ Tông Vi Diệu Pháp Vô Thường Vấn Đáp Phật Pháp

Tháng Năm 2023
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tạo một blog trên WordPress.com

%d người thích bài này: