“Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi đang ngồi họp, câu chuyện sau này khởi lên giữa chúng tôi: “Ðây là những sự thật Bà-la-môn, đây là những sự thật Bà-la-môn”.
“Idha, bho gotama, amhākaṁ sannisinnānaṁ sannipatitānaṁ ayamantarākathā udapādi: ‘itipi brāhmaṇasaccāni, itipi brāhmaṇasaccānī’”ti.
“Bốn sự thật Bà La Môn này, này các du sĩ, sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, đã được ta tuyên bố lên. Thế nào là bốn?
“Cattārimāni, paribbājakā, brāhmaṇasaccāni mayā sayaṁ abhiññā sacchikatvā paveditāni. Katamāni cattāri?
Ở đây, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: “Tất cả loài hữu tình không được làm hại“.
Idha, paribbājakā, brāhmaṇo evamāha: ‘sabbe pāṇā avajjhā’ti.
Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo.
Iti vadaṁ brāhmaṇo saccaṁ āha, no musā.
Do vậy, vị ấy không nghĩ đến “Sa-môn”, không nghĩ đến “Bà-la-môn”, không nghĩ đến: “Ta hơn (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta bằng (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta là hạ liệt”.
So tena na samaṇoti maññati, na brāhmaṇoti maññati, na seyyohamasmīti maññati, na sadisohamasmīti maññati, na hīnohamasmīti maññati.
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hành lòng thương tưởng, lòng từ mẫn đối với các loài hữu tình.
Api ca yadeva tattha saccaṁ tadabhiññāya pāṇānaṁyeva anuddayāya anukampāya paṭipanno hoti.
Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: “Mọi dục là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại“.
Puna caparaṁ, paribbājakā, brāhmaṇo evamāha: ‘sabbe kāmā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā’ti.
Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo.
Iti vadaṁ brāhmaṇo saccamāha, no musā.
Do vậy, vị ấy không nghĩ đến “Sa-môn”, không nghĩ đến “Bà-la-môn”, không nghĩ đến: “Ta hơn (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta bằng (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta là hạ liệt”.
So tena na samaṇoti maññati, na brāhmaṇoti maññati, na seyyohamasmīti maññati, na sadisohamasmīti maññati, na hīnohamasmīti maññati.
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, (trong lời nói ấy), người ấy thực hành nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các dục.
Api ca yadeva tattha saccaṁ tadabhiññāya kāmānaṁyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: “Tất cả hữu là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại”. Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến “Sa-môn”, không nghĩ đến “Bà-la-môn”, không nghĩ đến: “Ta hơn (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta bằng (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta là hạ liệt”. Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hiện nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các hữu.
Puna caparaṁ, paribbājakā, brāhmaṇo evamāha: ‘sabbe bhavā aniccā …pe… tadabhiññāya bhavānaṁyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Lại nữa, này các du sĩ, người Bà-la-môn nói như sau: “Ta không là bất cứ ai, bất cứ thuộc ai, bất cứ là gì. Trong ấy, không có cái gì được gọi là của ta, bất cứ ở đâu, bất cứ là gì“.
Puna caparaṁ, paribbājakā, brāhmaṇo evamāha: ‘nāhaṁ kvacani kassaci kiñcanatasmiṁ na ca mama kvacani katthaci kiñcanatatthī’ti.
Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến “Sa-môn”, không nghĩ đến “Bà-la-môn”, không nghĩ đến: “Ta hơn (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta bằng (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta là hạ liệt”.
Iti vadaṁ brāhmaṇo saccaṁ āha, no musā. So tena na samaṇoti maññati, na brāhmaṇoti maññati, na seyyohamasmīti maññati, na sadisohamasmīti maññati, na hīnohamasmīti maññati.
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, (trong lời nói ấy) người ấy thực hành con đường không có sự vật gì.
Api ca yadeva tattha saccaṁ tadabhiññāya ākiñcaññaṁyeva paṭipadaṁ paṭipanno hoti.
AN 4.185 Kinh Sự Thật Bà-La-Môn | AN 4.185 Brāhmaṇasaccasutta
Trả lời