Câu chuyện Con Rồng và vị Ẩn Sĩ. Bài học về sự xin xỏ, đòi hỏi quá nhiều.

“Vào thời bấy giờ, này chư Tỷ-kheo, có hai anh em ẩn sĩ sống gần con Sông Gaṅga.

“Bhūtapubbaṁ, bhikkhave, dve bhātaro isayo gaṅgaṁ nadiṁ upanissāya vihariṁsu.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Ganga và đến gần vị ẩn sĩ trẻ. Rồng chúa quấn quanh vị ẩn sĩ ấy bảy vòng và phồng lớn mang che trên đầu vị ẩn sĩ.

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā gaṅgaṁ nadiṁ uttaritvā yena kaniṭṭho isi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā kaniṭṭhaṁ isiṁ sattakkhattuṁ bhogehi parikkhipitvā uparimuddhani mahantaṁ phaṇaṁ karitvā aṭṭhāsi.

Này các Tỷ-kheo, bởi do sự khiếp sợ con rồng ấy, vị ẩn sĩ trẻ trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân.

Atha kho, bhikkhave, kaniṭṭho isi tassa nāgassa bhayā kiso ahosi lūkho dubbaṇṇo uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto. 

Này các Tỷ-kheo, vị ẩn sĩ lớn tuổi nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân nên đã hỏi vị ẩn sĩ trẻ tuổi rằng: “Này hiền giả, vì sao hiền giả trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân vậy?”

Addasa kho, bhikkhave, jeṭṭho isi kaniṭṭhaṁ isiṁ kisaṁ lūkhaṁ dubbaṇṇaṁ uppaṇḍuppaṇḍukajātaṁ dhamanisanthatagattaṁ. Disvāna kaniṭṭhaṁ isiṁ etadavoca—‘kissa tvaṁ, bho, kiso lūkho dubbaṇṇo uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto’ti?

“Thưa hiền giả, rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Ganga và đến gần tôi. Rồng chúa quấn quanh tôi bảy vòng và phồng lớn mang che trên đầu tôi. Thưa hiền giả, bởi do sự khiếp sợ con rồng ấy, tôi trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân.

‘Idha, bho, maṇikaṇṭho nāgarājā gaṅgaṁ nadiṁ uttaritvā yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ sattakkhattuṁ bhogehi parikkhipitvā uparimuddhani mahantaṁ phaṇaṁ karitvā aṭṭhāsi. Tassāhaṁ, bho, nāgassa bhayā kiso lūkho dubbaṇṇo uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto’ti.

Vị ẩn sĩ già nói rằng: “Này hiền giả, hiền giả có muốn con rồng ấy không đến nữa không?”

‘Icchasi pana tvaṁ, bho, tassa nāgassa anāgamanan’ti?

“Thưa hiền giả, tôi muốn con rồng ấy không đến nữa.”

‘Icchāmahaṁ, bho, tassa nāgassa anāgamanan’ti.

“Này hiền giả, hiền giả thấy con rồng ấy có vật gì?”

‘Api pana tvaṁ, bho, tassa nāgassa kiñci passasī’ti?

“Thưa hiền giả, tôi thấy ở cổ con rồng ấy có một viên ngọc Ma-ni”.

‘Passāmahaṁ, bho, maṇimassa kaṇṭhe pilandhanan’ti. 

“Này hiền giả, như vậy thì hiền giả hãy xin con rồng ấy viên ngọc ma-ni: ‘Này hiền giả, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni!’”

‘Tena hi tvaṁ, bho, taṁ nāgaṁ maṇiṁ yāca— “maṇiṁ me, bho, dehi; maṇinā me attho”’ti.

Này các Tỷ kheo, rồi rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Gaṅgā và đến gần vị ẩn sĩ trẻ, sau khi đến đã đứng ở một bên. Này các tỷ kheo, vị ẩn sĩ trẻ đã nói với rồng chúa Maṇikaṇṭha rằng:

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā gaṅgaṁ nadiṁ uttaritvā yena kaniṭṭho isi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho, bhikkhave, maṇikaṇṭhaṁ nāgarājānaṁ kaniṭṭho isi etadavoca—

“Này hiền giả, hãy cho ta ngọc ma-ni. Ta cần ngọc ma-ni.”

‘maṇiṁ me, bho, dehi; maṇinā me attho’ti.

Này các Tỷ kheo, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha nghĩ rằng: “Vị Tỷ kheo này hỏi xin ngọc ma-ni; vị ấy muốn ngọc ma-ni” và con rồng ấy rời đi ngay lập tức.

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā—‘bhikkhu maṇiṁ yācati, bhikkhussa maṇinā attho’ti khippaññeva agamāsi.

Đến lần thứ nhì, này các Tỷ kheo, rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Gaṅgā và đến gần vị ẩn sĩ trẻ.

Dutiyampi kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā gaṅgaṁ nadiṁ uttaritvā yena kaniṭṭho isi tenupasaṅkami.

Này các Tỷ kheo, vị ẩn sĩ trẻ nhìn thấy rồng chúa Maṇikaṇṭha từ xa đi lại và nói với rồng chúa rằng: ‘Này hiền giả, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni!’.

Addasa kho, bhikkhave, kaniṭṭho isi maṇikaṇṭhaṁ nāgarājānaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna maṇikaṇṭhaṁ nāgarājānaṁ etadavoca—‘maṇiṁ me, bho, dehi; maṇinā me attho’ti.

Này các Tỷ kheo, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha nghĩ rằng: “Vị Tỷ kheo này hỏi xin ngọc ma-ni; vị ấy muốn ngọc ma-ni” và con rồng ấy quay lui trở lại.

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā—‘bhikkhu maṇiṁ yācati, bhikkhussa maṇinā attho’ti tatova paṭinivatti.

Đến lần thứ ba, này các Tỷ kheo, rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Gaṅgā.

Tatiyampi kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā gaṅgaṁ nadiṁ uttarati.

Này các Tỷ kheo, vị ẩn sĩ trẻ ấy nhìn thấy rồng chúa Maṇikaṇṭha nổi lên từ sông Gaṅgā. Sau khi nhìn thấy đã nói với rồng chúa Maṇikaṇṭha rằng: ‘Này hiền giả, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni!’.

Addasa kho, bhikkhave, kaniṭṭho isi maṇikaṇṭhaṁ nāgarājānaṁ gaṅgaṁ nadiṁ uttarantaṁ. Disvāna maṇikaṇṭhaṁ nāgarājānaṁ etadavoca—‘maṇiṁ me, bho, dehi; maṇinā me attho’ti.

Này các Tỷ kheo, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha thốt lên lời với vị ẩn sĩ bằng bài kệ:

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā kaniṭṭhaṁ isiṁ gāthāhi ajjhabhāsi—

‘Thực phẩm và nước uống,
Được dồi dào tuyệt hảo,

‘Mamannapānaṁ vipulaṁ uḷāraṁ,

Chúng xuất hiện như vậy,
Bởi do ngọc Ma-ni.

Uppajjatīmassa maṇissa hetu;

Ta sẽ không cho Ngươi,
Kẻ đòi hỏi quá nhiều.

Taṁ te na dassaṁ atiyācakosi,

Khu ẩn cư của Ngươi,
Ta sẽ không đến nữa.’

Na cāpi te assamamāgamissaṁ.

Như một đứa trẻ con,
Cầm dao mài trên đá.

Susū yathā sakkharadhotapāṇī,

Ngươi làm ta sợ hãi,
Hỏi xin viên ngọc ấy.

Tāsesi maṁ selamāyācamāno;

Ta sẽ không cho Ngươi,
Kẻ đòi hỏi quá nhiều.

Taṁ te na dassaṁ atiyācakosi,

Khu ẩn cư của Ngươi,
Ta sẽ không đến nữa.’

Na cāpi te assamamāgamissan’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha nghĩ “Tỷ kheo này hỏi xin ngọc ma-ni, vị tỷ kheo này cần ngọc ma-ni” và con rồng ấy rời đi, không bao giờ quay trở lại.

Atha kho, bhikkhave, maṇikaṇṭho nāgarājā— ‘bhikkhu maṇiṁ yācati, bhikkhussa maṇinā attho’ti pakkāmi. Tathā pakkantova ahosi, na puna paccāgañchi. 

Này các Tỷ kheo, do bởi không nhìn thấy con rồng xinh đẹp ấy, vị ẩn sĩ trẻ trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân nhiều hơn.

Atha kho, bhikkhave, kaniṭṭho isi tassa nāgassa dassanīyassa adassanena bhiyyoso mattāya kiso ahosi lūkho dubbaṇṇo, uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto.

Này các Tỷ-kheo, rồi vị ẩn sĩ già nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân nhiều hơn và đã hỏi rằng: ‘Này hiền giả, vì sao hiền giả trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân nhiều hơn?’

Addasa kho, bhikkhave, jeṭṭho isi kaniṭṭhaṁ isiṁ bhiyyoso mattāya kisaṁ lūkhaṁ dubbaṇṇaṁ uppaṇḍuppaṇḍukajātaṁ dhamanisanthatagattaṁ. Disvāna kaniṭṭhaṁ isiṁ etadavoca—‘kissa tvaṁ, bho, bhiyyoso mattāya kiso lūkho dubbaṇṇo uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto’ti?

‘Thưa hiền giả, tôi trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, xanh xao, gân nổi khắp trên thân nhiều hơn là do tôi không còn nhìn thấy con rồng xinh đẹp ấy nữa.’

‘Tassāhaṁ, bho, nāgassa dassanīyassa adassanena bhiyyoso mattāya kiso lūkho dubbaṇṇo uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto’ti.

Vị ẩn sĩ già thốt lên với vị ẩn sĩ trẻ bài kệ rằng:

Atha kho, bhikkhave, jeṭṭho isi kaniṭṭhaṁ isiṁ gāthāya ajjhabhāsi—

‘Dẫu mong, chớ xin xỏ,
Vật yêu quý của Người;

‘Na taṁ yāce yassapiyaṁ jigīse, 

Trở thành kẻ ghét bỏ,
Do bởi xin quá nhiều.

Videsso hoti atiyācanāya; 

Rồng chúa đã rời đi,
Không bao giờ trở lại,
Do bởi Bà-la-môn,
Xin ngọc Ma-ni ấy.’

Nāgo maṇiṁ yācito brāhmaṇena,
Adassanaññeva tadajjhagamā’ti.

Này các Tỷ kheo, ngay cả loài thú cũng không thích cầu xin và xin xỏ, chứ đừng nói đến con người.”

Tesañhi nāma, bhikkhave, tiracchānagatānaṁ pāṇānaṁ amanāpā bhavissati yācanā amanāpā viññatti. Kimaṅgaṁ pana manussabhūtānaṁ. 

Bu Ss 6. Điều Học Xây Dựng Cốc (Kuṭikāra) | Ss. Tội Tăng Tàn (Ss. Saṅghādisesa) | Bu. Giới Luật Tỳ Kheo (Bu. Bhikkhu Vibhaṅga)



Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Bố Thí Bộ Phân Tích Chánh Niệm Chùa Cổ Coi Ngày Tốt Xấu Các Bậc Thánh Nhân Gia Đình Và Xã Hội Giới Luật Tỳ Khưu Giới Sīla Hội Chúng Kệ Khuyến Tu lòng tin ma vương nghiệp báo Nghiệp Và Quả Của Nghiệp ngũ trần người hiền trí nhẫn nại nền văn minh Phương Pháp Giáo Dục phước báo Phẩm Hạnh Sa Môn Phật Giáo Và Khoa Học sợ hãi Thiền Minh Sát Thiền Tứ Niệm Xứ Thiền Vipassanā Thích Minh Châu Thần Thông Truyện Phật Giáo Trí Tuệ Trường Bộ Kinh Tài Sản Tà Kiến Tái Sanh Tâm Lý Học Phật Giáo Tăng Chi Kinh Tạng Luật tỉnh giác Tội Trục Xuất tứ thánh đế Tỳ Khưu Hộ Tông Vi Diệu Pháp Vô Thường Vấn Đáp Phật Pháp

Tháng Năm 2023
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tạo một blog trên WordPress.com

%d người thích bài này: