Tự ngôn: Bởi La Hán có thể Hoài nghi trong tên và họ của nhiều kẻ nam nữ, có thể Hoài nghi đường đi trúng trật, có thể Hoài nghi tên rừng bụi cỏ cây cũng đặng, thế đó thì Sự Hoài nghi của La Hán mới còn có phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Arahā itthipurisānaṁ nāmagotte kaṅkheyya, maggāmagge kaṅkheyya, tiṇakaṭṭhavanappatīnaṁ nāme kaṅkheyyāti, atthi arahato kaṅkhāti? Āmantā.
Tự ngôn: La Hán có thể Hoài nghi trong Sơ quả, Nhị quả, Tam quả hoặc trong quả La Hán cũng đặng phải chăng? Phản ngữ: Không nên nói thế đó…
Arahā sotāpattiphale vā sakadāgāmiphale vā anāgāmiphale vā arahatte vā kaṅkheyyāti? Na hevaṁ vattabbe …pe….
Kv 2.3 Hoài Nghi Ngữ (Kv 2.3 Kaṅkhākathā) | Kv. Bộ Ngữ Tông (Kv. Kathāvatthu) | Ab Vô Tỉ Pháp (Ab Abhidhamma)
Tóm tắt: Các Ngài có thể hoài nghi về tên họ của người này người kia, hoài nghi đường đi này đúng đường này sai, hoài nghi tên cây cỏ, có thể các Ngài không biết ngoại ngữ, hay không biết một ngành nghề nào đó trong xã hội. Nhưng về Tứ Đế: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế, các Ngài đã thấu triệt. Vì đây là kiếp sống cuối cùng sẽ không còn tái sanh nữa.
Trả lời