Câu chuyện Đàn Chim và Vị Tỷ Kheo. Bài học về sự xin xỏ quá đáng.

Lúc bấy giờ, này các Tỷ kheo, một vị Tỷ kheo nọ sống trong khu rừng rậm trên sườn núi Hi-mã-lạp-sơn.

Bhūtapubbaṁ, bhikkhave, aññataro bhikkhu himavantapasse viharati aññatarasmiṁ vanasaṇḍe.

Này các Tỷ kheo, cách khu rừng đó không xa là một đầm lầy rộng lớn, trũng thấp.

Tassa kho, bhikkhave, vanasaṇḍassa avidūre mahantaṁ ninnaṁ pallalaṁ.

Này các Tỷ kheo, một đàn chim lớn kiếm ăn trong đầm lầy vào ban ngày và bay về khu rừng để ngủ vào ban đêm.

Atha kho, bhikkhave, mahāsakuṇasaṅgho tasmiṁ pallale divasaṁ gocaraṁ caritvā sāyaṁ taṁ vanasaṇḍaṁ vāsāya upagacchati.

Này các Tỷ kheo, khi ấy một vị Tỷ kheo bị quấy rầy bởi sự ồn ào của đàn chim ấy, và vị ấy đi đến gặp ta. Sau khi đến đã đảnh lễ ta, rồi ngồi xuống một bên. Này các Tỷ kheo, rồi ta nói với vị Tỷ kheo ấy:

Atha kho, bhikkhave, so bhikkhu tassa sakuṇasaṅghassa saddena ubbāḷho yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ahaṁ, bhikkhave, taṁ bhikkhuṁ etadavoca—

“Này Tỷ kheo, sức khoẻ có được tốt không? Mọi việc có tốt không? Người đi đường xa có mệt không? Và này Tỷ kheo, ngươi từ đâu đến?”

‘kacci, bhikkhu, khamanīyaṁ kacci yāpanīyaṁ kaccisi appakilamathena addhānaṁ āgato? Kuto ca tvaṁ, bhikkhu, āgacchasī’ti?

‘Bạch Đức Thế Tôn, sức khoẻ con tốt. Bạch Đức Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Bạch Đức Thế Tôn, con đi đường không có mệt nhọc.

‘Khamanīyaṁ, bhagavā, yāpanīyaṁ, bhagavā. Appakilamathena cāhaṁ, bhante, addhānaṁ āgato.

Bạch Ngài, có một khu rừng rậm trên sườn núi Hi-mã-lạp-sơn. Bạch Ngài, cách khu rừng đó không xa là một đầm lầy rộng lớn, trũng thấp.

Atthi, bhante, himavantapasse mahāvanasaṇḍo. Tassa kho pana, bhante, vanasaṇḍassa avidūre mahantaṁ ninnaṁ pallalaṁ.

Bạch Ngài, có một đàn chim lớn kiếm ăn trong đầm lầy vào ban ngày và bay về khu rừng để ngủ vào ban đêm.

Atha kho, bhante, mahāsakuṇasaṅgho tasmiṁ pallale divasaṁ gocaraṁ caritvā sāyaṁ taṁ vanasaṇḍaṁ vāsāya upagacchati.

Bạch Thế Tôn, con đến từ nơi ấy. Nhưng con đã rời đi bởi vì con bị quấy rầy do sự ồn ào của đàn chim ấy.’

Tato ahaṁ, bhagavā, āgacchāmi—tassa sakuṇasaṅghassa saddena ubbāḷho’ti.

‘Này Tỷ kheo, ngươi có muốn đàn chim ấy rời đi không?’

‘Icchasi pana tvaṁ, bhikkhu, tassa sakuṇasaṅghassa anāgamanan’ti?

‘Bạch Đức Thế Tôn, con muốn đàn chim ấy rời đi.’

‘Icchāmahaṁ, bhagavā, tassa sakuṇasaṅghassa anāgamanan’ti.

‘Này Tỷ kheo, như thế thì ngươi hãy trở về khu rừng rậm ấy. Vào canh đầu của đêm, hãy nói lớn ba lần:’

‘Tena hi tvaṁ, bhikkhu, tattha gantvā taṁ vanasaṇḍaṁ ajjhogāhetvā rattiyā paṭhamaṁ yāmaṁ tikkhattuṁ saddamanussāvehi—

“Hỡi các chú chim tốt bụng, xin hãy nghe ta. Ta cần một chiếc lông vũ của mỗi chú chim đang cư ngụ trong khu rừng rậm này. Mỗi một chú chim trong đàn hãy cho ta một chiếc lông vũ.”

suṇantu me, bhonto sakuṇā, yāvatikā imasmiṁ vanasaṇḍe vāsaṁ upagatā, pattena me attho. Ekekaṁ me, bhonto, pattaṁ dadantū’ti.

Và vào canh giữa … canh cuối của đêm hãy nói lớn ba lần:

Rattiyā majjhimaṁ yāmaṁ … rattiyā pacchimaṁ yāmaṁ tikkhattuṁ saddamanussāvehi—

“Hỡi các chú chim tốt bụng, xin hãy nghe ta. Ta cần một chiếc lông vũ của mỗi chú chim đang cư ngụ trong khu rừng rậm này. Mỗi một chú chim trong đàn hãy cho ta một chiếc lông vũ.”

‘suṇantu me, bhonto sakuṇā, yāvatikā imasmiṁ vanasaṇḍe vāsaṁ upagatā, pattena me attho. Ekekaṁ me, bhonto, pattaṁ dadantū’ti.

Này các Tỷ kheo, rồi vị Tỷ kheo ấy đã trở về khu rừng rậm và vào canh đầu của đêm nói lớn ba lần:

Atha kho, bhikkhave, so bhikkhu tattha gantvā taṁ vanasaṇḍaṁ ajjhogāhetvā rattiyā paṭhamaṁ yāmaṁ tikkhattuṁ saddamanussāvesi—

“Hỡi các chú chim tốt bụng, xin hãy nghe ta. Ta cần một chiếc lông vũ của mỗi chú chim đang cư ngụ trong khu rừng rậm này. Mỗi một chú chim trong đàn hãy cho ta một chiếc lông vũ.”

‘suṇantu me, bhonto sakuṇā, yāvatikā imasmiṁ vanasaṇḍe vāsaṁ upagatā, pattena me attho. Ekekaṁ me, bhonto, pattaṁ dadantū’ti.

Và vào canh giữa … canh cuối của đêm hãy nói lớn ba lần:

Rattiyā majjhimaṁ yāmaṁ …rattiyā pacchimaṁ yāmaṁ tikkhattuṁ saddamanussāvesi—

“Hỡi các chú chim tốt bụng, xin hãy nghe ta. Ta cần một chiếc lông vũ của mỗi chú chim đang cư ngụ trong khu rừng rậm này. Mỗi một chú chim trong đàn hãy cho ta một chiếc lông vũ.”

‘suṇantu me, bhonto sakuṇā, yāvatikā imasmiṁ vanasaṇḍe vāsaṁ upagatā, pattena me attho. Ekekaṁ me, bhonto, pattaṁ dadantū’ti.

Này các Tỷ kheo, khi ấy đàn chim nghĩ: ‘Vị Tỷ kheo đang hỏi xin một chiếc lông vũ; vị ấy cần một chiếc lông vũ’, và chúng rời khỏi khu rừng, không bao giờ quay trở lại.

Atha kho, bhikkhave, so sakuṇasaṅgho— ‘bhikkhu pattaṁ yācati bhikkhussa pattena attho’ti tamhā vanasaṇḍā pakkāmi. Tathā pakkantova ahosi na puna paccāgañchi.

Này các Tỷ kheo, ngay cả loài thú cũng không thích cầu xin và xin xỏ, chứ đừng nói đến con người.”

Tesañhi nāma, bhikkhave, tiracchānagatānaṁ pāṇānaṁ amanāpā bhavissati yācanā amanāpā viññatti. Kimaṅgaṁ pana manussabhūtānaṁ.

Bu Ss 6. Điều Học Xây Dựng Cốc (Kuṭikāra) | Ss. Tội Tăng Tàn (Ss. Saṅghādisesa) | Bu. Giới Luật Tỳ Kheo (Bu. Bhikkhu Vibhaṅga)



Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Bố Thí Bộ Phân Tích Chánh Niệm Chùa Cổ Coi Ngày Tốt Xấu Các Bậc Thánh Nhân Gia Đình Và Xã Hội Giới Luật Tỳ Khưu Giới Sīla Hội Chúng Kệ Khuyến Tu lòng tin ma vương nghiệp báo Nghiệp Và Quả Của Nghiệp ngũ trần người hiền trí nhẫn nại nền văn minh Phương Pháp Giáo Dục phước báo Phẩm Hạnh Sa Môn Phật Giáo Và Khoa Học sợ hãi Thiền Minh Sát Thiền Tứ Niệm Xứ Thiền Vipassanā Thích Minh Châu Thần Thông Truyện Phật Giáo Trí Tuệ Trường Bộ Kinh Tài Sản Tà Kiến Tái Sanh Tâm Lý Học Phật Giáo Tăng Chi Kinh Tạng Luật tỉnh giác Tội Trục Xuất tứ thánh đế Tỳ Khưu Hộ Tông Vi Diệu Pháp Vô Thường Vấn Đáp Phật Pháp

Tháng Năm 2023
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tạo một blog trên WordPress.com

%d người thích bài này: